Tổ Quốc: Ngành cao su loay hoay “tạm nhập, tái xuất”

29/09/2011 717


Tin tức trích từ: http://www.toquoc.gov.vn/


(Toquoc) – Bà Trần Thị Thúy Hoa, Tổng thư ký Hiệp hội Cao su Việt Nam (VRA) thừa nhận, từ đầu năm đến nay, biến động về giá cao su thế giới đã làm doanh nghiệp xuất nhập khẩu trong nước gặp nhiều khó khăn và rủi ro về giá vẫn là bài toán nan giải của ngành. Nhiều doanh nghiệp buộc phải tạm nhập, tái xuất để xoay trở tình thế.

“Quên” đầu tư công nghệ

Theo VRA, thời gian gần đây, diện tích cao su tiểu điền và tư nhân phát triển khá nhanh, năm 2010 đạt hơn 400.200ha, chiếm hơn 54% diện tích cao su cả nước. Kéo theo đó, nhiều nhà máy sơ chế cao su được thành lập. Vài địa phương như Bình Dương, Bình Phước, Tây Ninh… công suất nhà máy đã vượt năng lực nguồn nguyên liệu dẫn đến nhiều tiêu cực trong việc tranh mua, tranh bán. Một số doanh nghiệp chấp nhận nhập cao su với chất lượng kém với hy vọng kiếm lời ngắn hạn.

Theo kết quả điều tra năm 2010 của Trung tâm Tin học và Thống kê (Bộ NN&PTNT), cả nước có 155 nhà máy sơ chế cao su với tổng công suất là 978.950 tấn, vượt gần 30% so với năng lực sản suất tại thời điểm đó (754.500 tấn). Dự báo của VRA cho thấy, năm 2011 sản lượng cao su cả nước đạt 780.000 tấn và cả năm 2012 cũng chỉ dừng lại ở con số 810.000 tấn. Như vậy, các doanh nghiệp có nhà máy sơ chế cao su buộc phải “đóng băng” phần lớn công suất của mình ít nhất là hai năm nữa, gây lãng phí không nhỏ cho ngành.

Chính vì quá chú trọng vào sản lượng cao su sơ chế để mong nhận được nhiều đơn hàng xuất khẩu mà nhiều doanh nghiệp đã “quên” đầu tư nâng cao công nghệ chế biến và quy trình kiểm soát chất lượng. Do vậy, hiện tại ngành cao su đang phải đối mặt với tình trạng danh sách chủng loại cao su sơ chế còn rất sơ sài, chưa đáp ứng được thị trường tiêu thụ trọng điểm. Theo các chuyên gia, đây là điều bất cập khi sản lượng cao su Việt Nam không ngừng gia tăng.

Kết quả khảo sát một số nhà máy sơ chế cho thấy, hiện tại phần lớn dây chuyền công nghệ thiết bị sơ chế cao su chủ yếu là áp dụng công nghệ trong nước (chiếm 92% tổng vốn đầu tư). Rất nhiều thiết bị của các nhà máy chế biến đã đầu tư quá lâu, máy móc cũ kỹ và lạc hậu làm ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng sản phẩm. Trong khi đó, trình độ lao động và khâu quản lý chất lượng của các cơ sở sản xuất không đồng đều, điều này tất yếu dẫn đến việc các doanh nghiệp xuất khẩu luôn bị động vào giá từ các đối tác, tính rủi ro của ngành ngày càng gia tăng.

Đối phó bằng “tạm nhập, tái xuất”

Bà Trần Thị Thúy Hoa nhận định, nếu ngành cao su Việt Nam được quy hoạch bài bản, các doanh nghiệp đầu tư máy móc hiện đại sẽ tránh được khâu tạm nhập tái xuất tràn lan như hiện nay. Giải thích về nguyên nhân các doanh nghiệp phải tạm nhập tái xuất, bà Hoa cho biết, do ngành Cao su Việt Nam chưa đáp ứng được chủng loại sản phẩm, nguồn nguyên liệu trong nước còn chưa ổn định nên biện pháp tạm nhập tái xuất được xem là biện pháp tình thế giúp doanh nghiệp đảm bảo được các đơn hàng xuất khẩu.

Được biết, thuế nhập khẩu cao su hiện nay là 30%, doanh nghiệp vẫn chấp nhận tạm nhập tái xuất bởi chi phí đầu tư ban đầu không cao. Các doanh nghiệp nhỏ lẻ cũng có cơ hội “kiếm chác” khi các thị trường nhập khẩu có nhu cầu. Tuy nhiên, theo các chuyên gia, điều này cho thấy tuy Việt Nam là một trong những nước sản xuất và xuất khẩu cao su hàng đầu thế giới nhưng ngành cao su vẫn chưa xây dựng được chuỗi cung ứng bền vững, nguy cơ mất uy tín, mất thương hiệu, mất thị trường là điều có thể xảy ra bất cứ lúc nào.

Điều đáng nói là những thị trường xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như Trung Quốc, Hoa Kỳ lại cần những chủng loại cao su mà ngành sản xuất cao su trong nước chưa đáp ứng. Cụ thể, thị trường Trung Quốc cần nhiều cao su khối (chủ yếu là chủng loại TSR 20) nhằm phụ vụ cho ngành sản xuất lốp xe ô tô. Điều này cũng lý giải, chủng loại cao su được Việt Nam tạm nhập nhiều nhất trong 5 năm trở lại đây là cao su khối (chiếm 55,5%) và có xu hướng nhập ngày càng tăng trong những năm tới.

Có thể nói, nguồn nguyên liệu cao su của các doanh nghiệp xuất khẩu bị lệ thuộc phần lớn vào nước ngoài, trong khi tiềm năng của ngành cao su trong nước đã được khẳng định từ lâu. Có “vật liệu” nhưng chưa biết “xây nhà” là hạn chế cố hữu mà nhà sản xuất và xuất khẩu cao su Việt Nam cần khắc phục. Hấp tấp kiếm lời trong ngắn hạn đã đưa ngành cao su từ chỗ có thể chủ động về thị phần, giá cả trở thành một trong những ngành phải chấp nhận tạm nhập, tái xuất. “Quy hoạch vùng nguyên liệu, quy hoạch nhà máy sơ chế, tăng cường công tác quản lý và kiểm soát chất lượng… là những gì mà ngành Cao su Việt Nam cần phải làm trong thời gian tới”, bà Hoa nhận định.

Cây cao su hiện có diện tích lớn nhất trong số các cây công nghiệp dài ngày của Việt Nam, đạt 740.000ha năm 2010. Sản lượng cao su tăng nhanh với tốc độ bình quân khoảng 10%/năm, đạt 754.500 tấn năm 2010 và dự kiến đạt 780.000 tấn năm 2011. Kim ngạch xuất khẩu đạt 2,4 tỷ USD năm 2010 và dự kiến đạt từ 3 – 3,3 tỷ USD trong năm 2011. Việt Nam hiện là nước sản xuất cao su thiên nhiên đứng thứ 5 và xuất khẩu đứng thứ 4 trên thế giới.

Lê Nguyễn