16/11/2011
Trong
thực tế, ảnh hưởng của việc xử lý corona phụ thuộc vào độ ẩm tương đối.
Độ ẩm sẽ khử phân cực, nhưng ảnh hưởng của việc xử lý là nằm trong phạm
vi đo được bằng các phương pháp kiểm tra mực. Xử lý corona trực tuyến
trên máy in có thể tránh được các ảnh hưởng xấu ở trên.
Bề mặt vật liệu xử lý chứa năng lượng bề mặt [mN/m] ngụ ý rằng một năng lượng xác định (xử lý corona D[W x phút/m2]) được áp dụng. Công thức tính là:
s = f(D).
Trong các trường hợp đặc biệt, như màng polyethylene thì công thức tính năng lượng được xác định như sau:
s = k x D.
Trong đó k là hằng số.
Lượng xử lý corona D được xác định theo công thức:
s: năng lượng bề mặt [mN/m].
D: lượng xử lý corona [W x phút/m2].
P: công suất phát điện [W].
CB: Khổ rộng xử lý corona [m].
v: tốc độ màng [m/phút].
Ví dụ sau đây sẽ giải thích cho công thức trên:
Một
màng dự định in với tốc độ 350 m/phút, khổ rộng 1.600 mm: PET, LDPE, PP
co-polymer và PP homopolymer. Các màng này đã được xử lý trước trong
khi sản xuất, lưu trữ một thời gian. Trên máy in chúng phải được xử lý
đạt năng lượng bề mặt là 45 mN/m. Do thực tế xử lý corona đòi hỏi lượng
xử lý phụ thuộc vào các đặc tính bề mặt (xem bảng).
Công suất P được tính như sau:
P = D x CB x v.
Do vật liệu PP homopolymer khó xử lý nhất với 25 W x phút/m2, nên công suất phải là P = 25 x 1,6 x 350 = 14.000 W. Đối với PP co-polymer, LDPE và PET thì công suất tương ứng là 7.000W, 4.200W và 2.800W.
Nói
chung thiết bị xử lý corona được thiết lập dựa trên vật liệu khó xử lý
nhất. Đối với các vật liệu xử lý cần ít năng lượng thì công suất sẽ
giảm.
Lượng
xử lý corona có thể được xác định bởi việc lấy mẫu trong phạm vi thí
nghiệm với công thức tính đã đề cập ở trên. Với các dữ liệu này và các
thông số máy in của khách hàng thì công thức tính ở trên cho phép dễ
dàng phát triển thiết bị xử lý corona.
Ảnh
hưởng của lượng xử lý corona phụ thuộc rất lớn vào sự thiết kế các điện
cực. Các loại điện cực nhiều thanh (multi-blade) hiệu quả cao sẵn có
theo hình 1.
Hệ
thống này được đặc trưng bởi sự phân bố công suất xử lý corona của một
vài thanh điện cực xếp song song. Các thanh này được cố định một đầu
trên giá giữ và với sự giản nở nhiệt các thanh có thể di chuyển mà không
làm thay đổi khoảng cách giữa các điện cực. Một ưu điểm khác là phân bố
xả điện đồng đều, tránh được các kênh xả kéo dài. Trong hình 2,
hiệu quả cao của loại nhiều thanh điện cực so với các điện cực kim loại
thông thường như: một thanh hoặc thanh điện cực dạng chữ U.
Đối
với mức năng lượng bề mặt là 46 mN/m của BOPP, thì lượng xử lý corona
yêu cầu là 25 W.phút/m2. BOPP được xử lý với loại nhiều thanh điện cực
cho hiệu quả cao sẽ cho nhiều mức độ năng lượng bề mặt cao hơn dạng điện
cực kim loại thông thường sau một tháng lưu trữ, xem hình 3. Hình 4 và 5 là 2 trạm xử lý corona đối với vật liệu màng không dẫn điện.
Vietnamprint (Theo Vinpas)
Nguồn: