Phạm Nhân Thành
| |
Từ gợi ý của một số đồng nghiệp, tôi có bài viết nhỏ này. Nội dung không phải là mới mà chỉ tóm lược những vấn đề chủ yếu nhất thuộc lĩnh vực dấu thanh để những ai quan tâm đến vấn đề này tiện tham khảo, tra cứu.
|
Trừ một số địa phương thuộc miền bắc, hầu hết người miền trung và miền nam đều phát âm những từ có dấu thanh hỏi, ngã không phân biệt được cường độ của chúng nên khi viết cũng hay nhầm lẫn giữa hai dấu này. Có thể khắc phục tình hình này không? Câu trả lời là có nếu ghi nhớ được một số quy tắc sau.
1.Quy tắc hài thanh hỏi, ngã đối với từ láy
1.1.Trước hết cần phân biệt từ láy với từ ghép
1.1.1.Từ ghép là loại từ ghép hai âm tiết trở lên mà một lượng lớn từ thoạt nhìn giống từ láy. Chẳng hạn các từ lỡ dở, lí lẽ, lú lẫn, mồ mả, mỏi mệt, giữ gìn, nghỉ ngơi, sửa chữa, nhỏ nhẹ, sửa soạn, giãy nảy, nhểu nhão, kiêng cữ, ủ rũ... Điều cần nhớ là hai âm tiết của từ ghép đều có nghĩa chân xác. Tình hình cũng giống như loại từ ghép ăn uống, nhà cửa, quần áo, đau ốm... Tức là mỗi âm tiết của từ láy nếu đứng riêng thì trở thành một từ có nghĩa xác định.
1.1.2.Nhưng từ láy lại khác. Đó là từ cũng có cấu tạo từ hai âm tiết trở lên nhưng ít nhất có một âm tiết không có nghĩa xác định(1). Chẳng hạn loại từ có cả hai âm tiết đều không có nghĩa như lởn vởn, lủng củng, lững thững, tủn mủn, xởi lởi, đủng đỉnh... Một số từ khác lại có âm tiết đứng trước hoặc đứng sau không mang nghĩa như lỏng lẻo, mủm mỉm, nhỏ nhẻ... Tức là nếu tách ra thì các âm tiết lẻo, mủm, nhẻ không có nghĩa xác định. Nói khác, chúng không phải là một từ khi đứng riêng.
1.2.Quy tắc trầm bổng
1.2.1.Quy tắc trầm chi phối từ láy có một âm tiết mang dấu thanh là huyền, nặng, ngã thì âm tiết đi cùng cũng có dấu ngã.
Ví dụ1: Từ láy có một âm tiết mang thanh huyền mùi mẽ, mỡ màng, phè phỡn, phũ phàng, rành rẽ, rầu rĩ, rũ rượi, sàm sỡ, sỗ sàng, sững sờ, sừng sững, tầm tã, tròn trĩnh, vững vàng, vỗ về, vòi vĩnh, vẽ vời, xoàng xĩnh, bão bùng, bẽ bàng, buồn bã, còm cõi, chồm chỗm, dễ dàng, đẫy đà, hãi hùng, hỗn hào, hững hờ, kĩ càng, lỡ làng, lững lờ, não nùng, ngỡ ngàng...
Ví dụ 2: Từ láy có một âm tiết mang thanh nặng bụ bẫm, chặt chẽ, chập chững, dạn dĩ, doạ dẫm, dựa dẫm, đẹp đẽ, đĩnh đạc, gạ gẫm, gặp gỡ, giặc giã, gọn ghẽ, hợm hĩnh, khập khiễng, lạnh lẽo, lạc lõng, lọc lõi, nhạt nhẽo, ngặt nghẽo, nghễu nghện, ngỗ ngược, õng ẹo, quạnh quẽ, rộn rã, rộng rãi, rũ rượi, thưỡn thẹo, gỡ gạc, giãy giụa, não nuột, nhễ nhại, nhẵn nhụi...\
Ví dụ 3: Từ láy có một âm tiết mang thanh ngã lã chã, lẽo đẽo, lõm bõm, lõng bõng, lỗ chỗ, lững thững, nhõng nhẽo...
1.2.2.Quy tắc bổng chi phối từ láy có một âm tiết mang dấu thanh ngang, sắc, hỏi thì âm tiết đi cùng cũng có dấu hỏi.
Ví dụ 1: Từ láy có một âm tiết mang thanh ngang da dẻ, dai dẳng, dư dả, đon đả, nham nhở, thong thả, thơ thẩn, sa sả, vui vẻ, xây xẩm, leo lẻo, hả hê, hở hang, lẻ loi, mỏng manh, mở mang, rủ rê, nể nang...
Ví dụ 2: Từ láy có một âm tiết mang thanh sắc bướng bỉnh, cứng cỏi, gắng gỏi, gắt gỏng, khấp khởi, kháu khỉnh, hắt hủi, hóm hỉnh, hiểm hóc, hớn hở, lắt lẻo, lấp lửng, láu lỉnh, mát mẻ, nhảm nhí, phấp phỏng, rẻ rúng, rác rưởi, tấp tểnh, trắng trẻo, vất vưởng, vớ vẩn, vắng vẻ, xấp xỉ, xó xỉnh, xối xả, tỉnh táo, thẳng thắn, gởi gắm,...
Ví dụ 3: Từ láy có một âm tiết mang thanh hỏi thỏ thẻ, hổn hển, bủn rủn, đủng đỉnh, lảo đảo, lủng củng, lỏng lẻo...
Lưu ý 1: Để ghi nhớ quy tắc hài thanh trầm bổng (huyền-ngã-nặng/ngang-hỏi-sắc), người ta có hai câu lục bát sau:
Em huyền mang nặng ngã đau
Anh ngang sắc thuốc hỏi đầu bớt chưa
Lưu ý 2: Ngôn ngữ nào cũng có ngoại lệ nên quy tắc hài thanh tiếng Việt cũng có một số ngoại lệ sau:
-Âm tiết có thanh ngang nhưng âm tiết đi cùng lại có thanh ngã: khe khẽ, lam lũ, ngoan ngoãn, nông nỗi, trơ trẽn, ve vãn...
-Âm tiết có thanh huyền láy với âm tiết có thanh hỏi: bền bỉ, chàng hảng, chồm hổm, chèo bẻo, niềm nở, phỉnh phờ, sừng sỏ.
-Âm tiết có thanh nặng đi với thanh hỏi:gọn lỏn, nhỏ nhặt, vẻn vẹn...
2.Quy tắc dấu thanh đối với từ Hán Việt
Hơn 60% tiếng Việt có nguồn gốc Hán nhưng phát âm Việt nên gọi ghép là từ Hán Việt để phân biệt với từ thuần Việt. Đa số từ Hán Việt có cấu tạo từ hai âm tiết trở lên và thường mang nghĩa khái quát cao.
2.1. Quy tắc thanh ngã của từ Hán Việt được ghép thành công thức mình nên nhớ là viếtdấu ngã. Tức là với những từ Hán Việt có phụ âm đầu M, N. Nh, L, V, D, Ng thì phải viết thanh ngã. Ví dụ: M (mãnh liệt, mãn khoá, minh mẫn, mẫu hệ, mẫu giáo, mĩ thuật, mĩ lệ...), N (não bộ, truy nã, nỗ lực, phụ nữ...), Nh (nhãn hiệu, nhẫn nại, truyền nhiễm, thổ nhưỡng, nhũ mẫu), L (lão hoá, lãnh đạo, lãnh tụ, lãng phí, lễ nghĩa, lũng đoạn, tích luỹ...),V (vãn hồi, vãng lai, vĩ đại, vĩ tuyến, viễn xứ, vĩnh viễn...), D (dã man, hướng dẫn, dĩ vãng, dĩ nhiên, diễn viên, diễm lệ...), NG/NGH (bản ngã, ngôn ngữ, ngưỡng mộ, đội ngũ, nghĩa vụ, nghĩa trang...)
2.2. Quy tắc thanh hỏi được áp dụng với mọi phụ âm còn lại (tức là trừ các phụ âm nói trên) và các nguyên âm A, Â, Ô, Y kể cả âm đệm U.
2.2.1. Với các phụ âm B: bảo vệ, bản lĩnh, dân biểu, bảng nhãn... (Ngoại lệ: bãi công, bãi chức, bãi khoá, hoài bão, bão hoà), C: cảm tình, cảnh cáo, cẩn thận, cổ tích, củng cố, cử hành, nghĩa cử... (Ngoại lệ: cưỡng bức, linh cữu), Ð: đảm nhiệm, can đảm, đảng phái, điển hình, đả kích... (Ngoại lệ: đãi ngộ, đãng trí, phóng đãng, hiếu đễ, đỗ trọng, đỗ quyên), H: hải cảng, hải quân, hảo hạng, hoan hỉ, hiển vinh, hủ tục, hoả pháo, hoả tiễn, hoảng hốt... (Ngoại lệ: sợ hãi, kinh hãi, hãm hại, hung hãn, kiêu hãnh, hoãn binh, trì hoãn, hỗ trợ, hỗn hợp, huyễn hoặc, hữu nghị, hữu hạn, hãng), K: kỉ cương, kỉ luật, kỉ niệm, kiểm điểm... (Ngoại lệ: kĩ nữ, kĩ nghê, kĩ thuật, kĩ năng, kĩ xảo, kĩ sư, kĩ lưỡng), KH:khả ái, khả năng, khải hoàn, khảo cổ, khẩn cấp, khỏa thân, khẩu khí, khiển trách, khủng bố, khuyển nho... , PH: gia phả, phản chiếu, phản ánh, phẩm chất, phủ định... (Ngoại lệ:phẫn nộ, phẫn uất, phẫn chí, phẫu thuật), Q: quả cảm, quả phụ, quản lí, quản giáo, quảng cáo, quảng đại, quảng trường, quỷ kế, quỷ quyệt... (Ngoại lệ: quẫn bách, quẫn trí, cùng quẫn, quỹ đạo), S: sản sinh, sản vật, sở hữu, sủng ái, lịch sử... (Ngoại lệ: sĩ, suyễn,sãi), T: miêu tả, vận tải, tản cư, tẩu thoát, tử trận, phụ tử, tiểu tiết... (Ngoại lệ: tiễn biệt, hỏa tiễn, tiễu trừ, tĩnh mịch, tuẫn tiết), TH: sa thải, thảm kịch, thảm họa, thản nhiên, thảng thốt, thảo mộc, thiểu số, thiển cận... (Ngoại lệ: mâu thuẫn, hậu thuẫn, phù thũng), TR:triển khai, trở lực, trưởng giả, trưởng nam... (Ngoại lệ: trữ lượng, tích trữ, trẫm, chim trĩ, ấu trĩ, bệnh trĩ), X: xả thân, xảo trá, ngu xuẩn, xử lí, công xưởng.... (Ngoại lệ: xã hội, xã tắc, xã giao).
2.2.2. Với các nguyên âm A (ảo ảnh, ảm đạm, quan ải...), Â (ẩn sĩ, ẩn số, ẩn dật, ẩm thực...), Ô (ổn định, ổn áp, ổn thoả...), Y (ỷ lại, ỷ thế, yểm hộ, yểm trợ, yểu mệnh, yểu tử...), U (ủng hộ, uổng mạng, uổng phí, uẩn khúc, uỷ nhiệm, ủy quyền, uỷ viên, uỷ thác, uyển chuyển...).
1.Quy tắc hài thanh hỏi, ngã đối với từ láy
1.1.Trước hết cần phân biệt từ láy với từ ghép
1.1.1.Từ ghép là loại từ ghép hai âm tiết trở lên mà một lượng lớn từ thoạt nhìn giống từ láy. Chẳng hạn các từ lỡ dở, lí lẽ, lú lẫn, mồ mả, mỏi mệt, giữ gìn, nghỉ ngơi, sửa chữa, nhỏ nhẹ, sửa soạn, giãy nảy, nhểu nhão, kiêng cữ, ủ rũ... Điều cần nhớ là hai âm tiết của từ ghép đều có nghĩa chân xác. Tình hình cũng giống như loại từ ghép ăn uống, nhà cửa, quần áo, đau ốm... Tức là mỗi âm tiết của từ láy nếu đứng riêng thì trở thành một từ có nghĩa xác định.
1.1.2.Nhưng từ láy lại khác. Đó là từ cũng có cấu tạo từ hai âm tiết trở lên nhưng ít nhất có một âm tiết không có nghĩa xác định(1). Chẳng hạn loại từ có cả hai âm tiết đều không có nghĩa như lởn vởn, lủng củng, lững thững, tủn mủn, xởi lởi, đủng đỉnh... Một số từ khác lại có âm tiết đứng trước hoặc đứng sau không mang nghĩa như lỏng lẻo, mủm mỉm, nhỏ nhẻ... Tức là nếu tách ra thì các âm tiết lẻo, mủm, nhẻ không có nghĩa xác định. Nói khác, chúng không phải là một từ khi đứng riêng.
1.2.Quy tắc trầm bổng
1.2.1.Quy tắc trầm chi phối từ láy có một âm tiết mang dấu thanh là huyền, nặng, ngã thì âm tiết đi cùng cũng có dấu ngã.
Ví dụ1: Từ láy có một âm tiết mang thanh huyền mùi mẽ, mỡ màng, phè phỡn, phũ phàng, rành rẽ, rầu rĩ, rũ rượi, sàm sỡ, sỗ sàng, sững sờ, sừng sững, tầm tã, tròn trĩnh, vững vàng, vỗ về, vòi vĩnh, vẽ vời, xoàng xĩnh, bão bùng, bẽ bàng, buồn bã, còm cõi, chồm chỗm, dễ dàng, đẫy đà, hãi hùng, hỗn hào, hững hờ, kĩ càng, lỡ làng, lững lờ, não nùng, ngỡ ngàng...
Ví dụ 2: Từ láy có một âm tiết mang thanh nặng bụ bẫm, chặt chẽ, chập chững, dạn dĩ, doạ dẫm, dựa dẫm, đẹp đẽ, đĩnh đạc, gạ gẫm, gặp gỡ, giặc giã, gọn ghẽ, hợm hĩnh, khập khiễng, lạnh lẽo, lạc lõng, lọc lõi, nhạt nhẽo, ngặt nghẽo, nghễu nghện, ngỗ ngược, õng ẹo, quạnh quẽ, rộn rã, rộng rãi, rũ rượi, thưỡn thẹo, gỡ gạc, giãy giụa, não nuột, nhễ nhại, nhẵn nhụi...\
Ví dụ 3: Từ láy có một âm tiết mang thanh ngã lã chã, lẽo đẽo, lõm bõm, lõng bõng, lỗ chỗ, lững thững, nhõng nhẽo...
1.2.2.Quy tắc bổng chi phối từ láy có một âm tiết mang dấu thanh ngang, sắc, hỏi thì âm tiết đi cùng cũng có dấu hỏi.
Ví dụ 1: Từ láy có một âm tiết mang thanh ngang da dẻ, dai dẳng, dư dả, đon đả, nham nhở, thong thả, thơ thẩn, sa sả, vui vẻ, xây xẩm, leo lẻo, hả hê, hở hang, lẻ loi, mỏng manh, mở mang, rủ rê, nể nang...
Ví dụ 2: Từ láy có một âm tiết mang thanh sắc bướng bỉnh, cứng cỏi, gắng gỏi, gắt gỏng, khấp khởi, kháu khỉnh, hắt hủi, hóm hỉnh, hiểm hóc, hớn hở, lắt lẻo, lấp lửng, láu lỉnh, mát mẻ, nhảm nhí, phấp phỏng, rẻ rúng, rác rưởi, tấp tểnh, trắng trẻo, vất vưởng, vớ vẩn, vắng vẻ, xấp xỉ, xó xỉnh, xối xả, tỉnh táo, thẳng thắn, gởi gắm,...
Ví dụ 3: Từ láy có một âm tiết mang thanh hỏi thỏ thẻ, hổn hển, bủn rủn, đủng đỉnh, lảo đảo, lủng củng, lỏng lẻo...
Lưu ý 1: Để ghi nhớ quy tắc hài thanh trầm bổng (huyền-ngã-nặng/ngang-hỏi-sắc), người ta có hai câu lục bát sau:
Em huyền mang nặng ngã đau
Anh ngang sắc thuốc hỏi đầu bớt chưa
Lưu ý 2: Ngôn ngữ nào cũng có ngoại lệ nên quy tắc hài thanh tiếng Việt cũng có một số ngoại lệ sau:
-Âm tiết có thanh ngang nhưng âm tiết đi cùng lại có thanh ngã: khe khẽ, lam lũ, ngoan ngoãn, nông nỗi, trơ trẽn, ve vãn...
-Âm tiết có thanh huyền láy với âm tiết có thanh hỏi: bền bỉ, chàng hảng, chồm hổm, chèo bẻo, niềm nở, phỉnh phờ, sừng sỏ.
-Âm tiết có thanh nặng đi với thanh hỏi:gọn lỏn, nhỏ nhặt, vẻn vẹn...
2.Quy tắc dấu thanh đối với từ Hán Việt
Hơn 60% tiếng Việt có nguồn gốc Hán nhưng phát âm Việt nên gọi ghép là từ Hán Việt để phân biệt với từ thuần Việt. Đa số từ Hán Việt có cấu tạo từ hai âm tiết trở lên và thường mang nghĩa khái quát cao.
2.1. Quy tắc thanh ngã của từ Hán Việt được ghép thành công thức mình nên nhớ là viếtdấu ngã. Tức là với những từ Hán Việt có phụ âm đầu M, N. Nh, L, V, D, Ng thì phải viết thanh ngã. Ví dụ: M (mãnh liệt, mãn khoá, minh mẫn, mẫu hệ, mẫu giáo, mĩ thuật, mĩ lệ...), N (não bộ, truy nã, nỗ lực, phụ nữ...), Nh (nhãn hiệu, nhẫn nại, truyền nhiễm, thổ nhưỡng, nhũ mẫu), L (lão hoá, lãnh đạo, lãnh tụ, lãng phí, lễ nghĩa, lũng đoạn, tích luỹ...),V (vãn hồi, vãng lai, vĩ đại, vĩ tuyến, viễn xứ, vĩnh viễn...), D (dã man, hướng dẫn, dĩ vãng, dĩ nhiên, diễn viên, diễm lệ...), NG/NGH (bản ngã, ngôn ngữ, ngưỡng mộ, đội ngũ, nghĩa vụ, nghĩa trang...)
2.2. Quy tắc thanh hỏi được áp dụng với mọi phụ âm còn lại (tức là trừ các phụ âm nói trên) và các nguyên âm A, Â, Ô, Y kể cả âm đệm U.
2.2.1. Với các phụ âm B: bảo vệ, bản lĩnh, dân biểu, bảng nhãn... (Ngoại lệ: bãi công, bãi chức, bãi khoá, hoài bão, bão hoà), C: cảm tình, cảnh cáo, cẩn thận, cổ tích, củng cố, cử hành, nghĩa cử... (Ngoại lệ: cưỡng bức, linh cữu), Ð: đảm nhiệm, can đảm, đảng phái, điển hình, đả kích... (Ngoại lệ: đãi ngộ, đãng trí, phóng đãng, hiếu đễ, đỗ trọng, đỗ quyên), H: hải cảng, hải quân, hảo hạng, hoan hỉ, hiển vinh, hủ tục, hoả pháo, hoả tiễn, hoảng hốt... (Ngoại lệ: sợ hãi, kinh hãi, hãm hại, hung hãn, kiêu hãnh, hoãn binh, trì hoãn, hỗ trợ, hỗn hợp, huyễn hoặc, hữu nghị, hữu hạn, hãng), K: kỉ cương, kỉ luật, kỉ niệm, kiểm điểm... (Ngoại lệ: kĩ nữ, kĩ nghê, kĩ thuật, kĩ năng, kĩ xảo, kĩ sư, kĩ lưỡng), KH:khả ái, khả năng, khải hoàn, khảo cổ, khẩn cấp, khỏa thân, khẩu khí, khiển trách, khủng bố, khuyển nho... , PH: gia phả, phản chiếu, phản ánh, phẩm chất, phủ định... (Ngoại lệ:phẫn nộ, phẫn uất, phẫn chí, phẫu thuật), Q: quả cảm, quả phụ, quản lí, quản giáo, quảng cáo, quảng đại, quảng trường, quỷ kế, quỷ quyệt... (Ngoại lệ: quẫn bách, quẫn trí, cùng quẫn, quỹ đạo), S: sản sinh, sản vật, sở hữu, sủng ái, lịch sử... (Ngoại lệ: sĩ, suyễn,sãi), T: miêu tả, vận tải, tản cư, tẩu thoát, tử trận, phụ tử, tiểu tiết... (Ngoại lệ: tiễn biệt, hỏa tiễn, tiễu trừ, tĩnh mịch, tuẫn tiết), TH: sa thải, thảm kịch, thảm họa, thản nhiên, thảng thốt, thảo mộc, thiểu số, thiển cận... (Ngoại lệ: mâu thuẫn, hậu thuẫn, phù thũng), TR:triển khai, trở lực, trưởng giả, trưởng nam... (Ngoại lệ: trữ lượng, tích trữ, trẫm, chim trĩ, ấu trĩ, bệnh trĩ), X: xả thân, xảo trá, ngu xuẩn, xử lí, công xưởng.... (Ngoại lệ: xã hội, xã tắc, xã giao).
2.2.2. Với các nguyên âm A (ảo ảnh, ảm đạm, quan ải...), Â (ẩn sĩ, ẩn số, ẩn dật, ẩm thực...), Ô (ổn định, ổn áp, ổn thoả...), Y (ỷ lại, ỷ thế, yểm hộ, yểm trợ, yểu mệnh, yểu tử...), U (ủng hộ, uổng mạng, uổng phí, uẩn khúc, uỷ nhiệm, ủy quyền, uỷ viên, uỷ thác, uyển chuyển...).
3.Cũng còn một vài quy tắc nữa dành cho các từ thuần Việt, các từ đồng nghĩa, gần nghĩa nhưng đều là các quy tắc phái sinh của những quy tắc nêu trên. Do đó, chúng không được đề cập ở đây để tránh dài dòng. Bạn đọc chỉ cần ghi nhớ hay sử dụng những quy tắc trên để kiểm tra dấu thanh khi viết văn bản thì có thể tự minh phát hiện thêm những quy tắc phái sinh. Chính điều này góp phần quan trọng hình thành kinh nghiệm hoặc thói quen viết đúng dấu thanh.
P.N.T
(1) Ngoài ra cần biết thêm về mặt hình thức, từ láy gồm loại láy hoàn toàn (xanh xanh, đo đỏ, thoang thoảng...) và láy bộ phận gồm hai phần: láy phụ âm (nể nang, rủ rê, thấpthỏm, phấp phỏng, khập khiễng...) và láy phần vần (lang thang, bủn rủn, lủng củng...).
Nguồn: