Theo Thông tư 152/2011/TT-BTC ngày 11/11/2011 của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành Nghị định số 67/2011/ND-CP ngày 08/8/2011 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thuế Bảo vệ môi trường, túi ni-lông thuộc diện chịu thuế (túi nhựa xốp) là loại túi, bao bì nhựa mỏng làm từ màng nhựa đơn HDPE (high density polyethylene resin), LDPE (Low density polyethylen) hoặc LLDPE (Linear low density polyethylen resin), trừ bao bì đóng gói sẵn hàng hoá và túi ni lông đáp ứng tiêu chí thân thiện với môi trường theo quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường và hướng dẫn của Bộ Tài nguyên và Môi trường.
Mức thuế áp dụng đối với túi ni-lông chịu thuế theo Nghị quyết 1269/2011/UBTVQH12 của UB Thường vụ Quốc hội ngày 14/7/2011 là 40.000 đồng/kg.
Đối với ngành cao su, nguyên liệu cao su thiên nhiên được sản xuất khoảng 800 ngàn tấn hàng năm, trong đó 80 % được xuất khẩu, chủ yếu được sử dụng để sản xuất lốp xe (khoảng 70 % nhu cầu). Lượng bao bì nhựa đóng gói cao su ước khoảng 4.800 tấn/năm (bình quân 6 kg bao bì nhựa cho mỗi tấn cao su khô) và được đưa vào luyện hỗn hợp với cao su (vì khó bốc tách) làm thành sản phẩm. Do đó, các bao bì nhựa đóng gói mặt hàng cao su không bị xả thải ra môi trường.
Như vậy, bao bì nhựa đóng gói cao su nguyên liệu có thể được xem là loại bao bì đóng gói sẵn hàng hóa mà phần lớn được xuất khẩu và không bị xả thải ra môi trường.
Hiệp hội Cao su Việt Nam đã gửi văn bản (16/3/2012) đề nghị Bộ Công Thương và Bộ Tài Chính xem xét cho xếp loại bao bì nhựa đóng gói cao su nguyên liệu thuộc diện đối tượng không chịu thuế Bảo vệ môi trường.
Tiếp nhận kiến nghị của một số hiệp hội, sau cuộc họp giao ban xuất khẩu 3 tháng đầu năm 2012, Bộ Công Thương đã có văn bản (09/4/2012) gửi Thủ tướng xem xét, chỉ đạo Bộ Tài chính hướng dẫn bổ sung thuế đối với bao bì nhựa theo hướng quy định túi nhựa/ni lông do nhập, tự sản xuất, mua nội địa để làm bao bì hàng xuất khẩu thuộc diện không chịu thuế hoặc được hoàn thuế.
(Hiệp hội Cao su Việt Nam)
Nguồn: