Luật Thuế bảo vệ môi trường (BVMT) được Quốc hội thông qua ngày 15/11/2010 và có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2012. Để hướng dẫn thực hiện Luật. Uỷ ban TVQH đã ban hành Nghị quyết số 1269/2011/UBTVQH12 ngày 14/7/2011 về Biểu mức thuế BVMT. Chính phủ đã ban hành Nghị định số 67/2011/NĐ-CP ngày 08/8/2011. Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 152/2011/TT-BTC ngày 11/11/2011 hướng dẫn thực hiện Nghị định 67/2011/NĐ-CP.
Trong quá trình triển khai thực hiện, nhìn chung các mặt hàng thuộc diện chịu thuế BVMT không phát sinh vướng mắc. Riêng đối với mặt hàng túi ni lông, đã phát sinh một số vướng mắc, kiến nghị.
Để giải quyết vướng mắc, kiến nghị, ngày 16/5/2012, Bộ Tài chính đã có công văn số 6545/BTC-CST trình Thủ tướng Chính phủ phương án tháo gỡ vướng mắc về thuế BVMT đối với túi ni lông. Theo đó, Bộ Tài chính đã đề xuất hướng xử lý đối với 4 vấn đề còn có vướng mắc, kiến nghị sau:
Thứ nhất, về đối tượng chịu thuế, vướng mắc về việc có thu thuế thuế BVMT đối với màng ni lông, cuộn ni lông dạng ống hay không. Hướng đề xuất xử lý là: Chỉ thu thuế BVMT đối với túi ni lông là các loại túi, bao bì có hình dạng túi (có miệng túi, có đáy túi, có thành túi và có thể đựng sản phẩm trong đó) được làm từ màng nhựa đơn HDPE, LDPE, LLDPE, không thu thuế đối với: Màng ni lông, tấm ni lông, dải ni lông, cuộn ni lông dạng ống, màng ni lông sử dụng che phủ nông nghiệp...
Thứ hai, về kiến nghị không thu thuế bảo vệ môi trường đối với bao bì trong trường hợp DN mua của doanh nghiệp sản xuất, nhập khẩu bao bì để đóng gói hàng hoá của mình, hướng xử lý được đề xuất như sau: Bao bì (kể cả dạng túi và không dạng túi) do doanh nghiệp mua để đóng gói hàng hóa của mình thì không thuộc đối tượng chịu thuế BVMT (bao gồm cả đóng gói hàng xuất khẩu và tiêu dùng trong nước). Tuy nhiên, chỉ áp dụng đối với trường hợp bao bì doanh nghiệp mua trực tiếp của doanh nghiệp sản xuất hoặc nhập khẩu bao bì; không áp dụng đối với bao bì mua qua khâu thương mại.
Thứ ba, về cách tính, thu thuế đối với túi ni lông đa lớp (túi, bao bì làm từ màng phức hợp, có nhiều lớp, trong đó có lớp màng nhựa thuộc đối tượng chịu thuế): Hướng đề xuất xử lý là: Đối với túi ni lông đa lớp được sản xuất từ màng nhựa đơn HDPE, LDPE, LLDPE và các loại màng nhựa đơn khác (PP, PA,...), thì thuế BVMT được tính theo tỷ lệ % trọng lượng màng nhựa đơn HDPE, LDPE, LLDPE có trong túi.
Thứ tư, đối với túi ni lông đáp ứng tiêu chí thân thiện với môi trường, đây là vấn đề vướng mắc do đến nay vẫn chưa có văn bản quy định về tiêu chí xác định túi ni lông thân thiện với môi trường. Hướng giải quyết được đề xuất như sau: Doanh nghiệp sản xuất túi ni lông vẫn thực hiện việc khai, nộp thuế BVMT. Khi Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành tiêu chuẩn túi ni lông thân thiện với môi trường, doanh nghiệp sản xuất túi ni lông nếu đáp ứng được tiêu chuẩn túi ni lông thân thiện với môi trường thì sẽ được thoái trả thuế BVMT đã nộp hoặc trừ vào số thuế BVMT phải nộp của kỳ sau (nếu có). Doanh nghiệp tự kê khai và chịu trách nhiệm về kê khai của doanh nghiệp.
Với hướng đề xuất xử lý các vấn đề vướng mắc nêu trên sẽ giải quyết được các vướng mắc và góp phần tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp sản xuất túi ni lông nói riêng và các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, xuất khẩu hàng hoá khác có sử dụng bao bì.
Nguồn: Hiệp Hội Cao su Việt nam
Hình ảnh sản phẩm cao su con lăn Polyurethane |