Đệm cao su làm kín |
Nhiệt độ chuyển thủy tinh và các tính chất
của vật liệu đàn hồi trong vùng chuyển tiếp được xác định bằng phương pháp này
dựa trên việc ghi lại sự thay đổi tỷ số giữa thành phần biến dạng thuận nghịch
và không thuận nghịch. Tỷ số này phụ thuộc vào khả năng của mẫu thử nghiệm phục
hồi lại kích thước của nó sau khi biến dạng.
Nếu một mẫu
thử nghiệm chịu tải ở nhiệt độ TD trong vùng trạng thái giống cao su
(ví dụ, ở nhiệt độ phòng), sau đó được làm lạnh xuống nhiệt độ T và được giữ ở
nhiệt độ này trong khoảng thời gian t1, kích thước của mẫu thử nghiệm
ở T sẽ phục hồi khi tải được lấy đi, các giá trị phục hồi được đo sau một thời
gian cho trước t2. Khi nhiệt độ T giảm, vận tốc phục hồi sẽ xuống giá
trị thấp nhất của chúng, tương ứng với Tg. Phương pháp này có thể được sử dụng
cho cả kéo và nén. Với sự lựa chọn phương pháp và lắp đặt dụng cụ đo đúng, dãy
dữ liệu đạt được từ phương pháp này không vượt quá 2%. Giá trị phục hồi khi chịu
nén (thông số kháng nhiệt độ thấp khi chịu nén) là một trong các thông số được
sử dụng rộng rãi ở Nga để đặc trưng các tính chất của vật liệu đàn hồi trong
vùng chuyển tiếp.
Một dạng khác của phương pháp phục hồi là
phương pháp co rút theo nhiệt độ (temperature retraction , TR). Phương pháp này
bao gồm việc đo sự phục hồi của mẫu thử nghiệm khi mẫu được kéo giãn ở nhiệt độ
phòng, sau đó được làm lạnh xuống nhiệt độ thấp hơn Tg, tiếp theo nhiệt độ của
nó tăng lên ở một vận tốc cho trước. Trong trường hợp này, Tg phụ thuộc vào vận
tốc thay đổi nhiệt độ. Trong phương pháp TR, người ta luôn chú ý các nhiệt độ
tương ứng với độ phục hồi 2, 10, 50 hoặc 90%.
Theo nguyên tắc, Tg có thể được xác định bằng sự phụ
thuộc vào nhiệt độ của bất kỳ tính chất cơ học nào, bao gồm độ cứng, độ bền và
độ giãn dài tại điểm gãy.
Tham khảo từ tài
liệu Low-Temperature Behaviour of
Elastomers, M.F. Bukhina, S.K. Kurlyand, CRC Press, 2007, trang 15 -
17
(vtp-vlab-caosuviet)
Tag:
chuyển thủy tinh, phục hồi
Cao su phụ tùng từ Vietrubber - Phễu hút tem nhãn bao bì |